Báo Cáo Thị Trường Lao Động Việt Nam 2022 Tại Việt Nam

Báo Cáo Thị Trường Lao Động Việt Nam 2022 Tại Việt Nam

Tổng cục Thống kê Việt Nam đã công bố báo cáo về lao động và việc làm quý 1 năm 2023. Dưới đây là nội dung báo cáo.

Tổng cục Thống kê Việt Nam đã công bố báo cáo về lao động và việc làm quý 1 năm 2023. Dưới đây là nội dung báo cáo.

Ngành dịch vụ của Việt Nam vẫn được người lao động ưa chuộng

Lĩnh vực dịch vụ của Việt Nam trong Quý 1 năm 2022 sử dụng 39% lao động Việt Nam, tương đương gần 20 triệu người. Tiếp theo là ngành công nghiệp và xây dựng, với 33,9% lao động, tương đương 17,3 triệu người. Cuối cùng, nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 27,1% hay 13,8 triệu người cuối cùng – giảm 285.600 nghìn người so với Quý 4 năm 2022.

Một lần nữa, điều này nhấn mạnh sự chuyển đổi từ trồng trọt, đánh cá và lâm nghiệp ở khu vực nông thôn sang các công việc sản xuất hoặc ngành dịch vụ được trả lương cao hơn. Báo cáo của GSO chỉ ra rằng số lượng người Việt Nam làm việc trong lĩnh vực dịch vụ, công nghiệp và xây dựng tăng lần lượt là 38.100 và 360.900 người trong Quý 4 năm 2022.

Thu nhập trung bình hàng tháng của nhân viên tăng so với quý trước và so với quý 1 năm 2022. Nhìn chung, mức lương trung bình hàng tháng là 7 triệu đồng (298 USD) mỗi tháng. Điều này bao gồm mức tăng 197.000 đồng (8,39 USD) trong quý 4 năm 2022.

Tuy nhiên, mức tăng này không được áp dụng đồng đều.

Ví dụ, lĩnh vực dịch vụ có mức lương tăng 766.000 đồng (32,63 USD). Điều này đưa mức lương trung bình của một nhân viên ngành dịch vụ lên mức 8,3 triệu đồng (353,42 USD). Ngược lại, trong lĩnh vực nông nghiệp, thủy sản và lâm nghiệp, GSO nhận thấy mức lương trung bình chỉ là 4,1 triệu, bao gồm mức tăng 345.000 đồng (14,69 USD) – chưa bằng một nửa mức tăng lương trung bình của nhân viên ngành dịch vụ.

Hơn nữa, ngành công nghiệp và xây dựng đứng ở vị trí trung gian. Công nhân trong các lĩnh vực này kiếm được mức lương trung bình là 7,9 triệu đồng (336 đô la Mỹ) một tháng, bao gồm mức tăng 655.000 đồng (27,89 đô la Mỹ).

Bên cạnh sự không nhất quán giữa các ngành, còn có sự không nhất quán giữa các giới tính.

Nhìn chung, nam giới ở Việt Nam được trả lương cao hơn nữ giới 1,36 lần mỗi tháng. Trên thực tế, con số này tương đương với thu nhập trung bình của nam giới là 8 triệu đồng (340 USD) mỗi tháng. Đối với lao động nữ, con số đó chỉ là 5,9 triệu đồng (251 USD).

Tuy nhiên, đối với người lao động làm công ăn lương, khoảng cách đó thu hẹp đáng kể, mặc dù lao động nam và nữ vẫn chưa ngang bằng.

Một người đàn ông Việt Nam có mức lương trung bình nhận được 8,3 triệu đồng (353 USD) mỗi tháng. Con số này gấp 1,14 lần mức lương trung bình của một phụ nữ Việt Nam, người chỉ nhận được 7,3 triệu đồng (310 USD) mỗi tháng.

Đối với các doanh nghiệp nước ngoài, lực lượng lao động tương đối trẻ, dồi dào và chi phí thấp của Việt Nam đã khiến nước này trở thành điểm đến hấp dẫn cho nhiều nhiệm vụ và đặc biệt là lĩnh vực sản xuất. Điều này có vẻ sẽ tiếp tục trong một thời gian, nhưng các nhà đầu tư nên nhớ rằng tiền lương trong nước đang tăng lên và điều này đang thay đổi động lực của lực lượng lao động.

Hơn nữa, về lâu dài, khi ngày càng nhiều người Việt Nam theo đuổi giáo dục đại học và các cơ hội nâng cao kỹ năng, nguồn nhân tài sẽ thay đổi về bản chất. Tuy nhiên, trong thời gian tới, việc tuyển dụng những người đứng đầu sẽ vẫn còn nhiều thách thức và nên đào tạo tại chỗ để giữ chân nhân viên tốt hơn.

Nhìn chung, Việt Nam không chỉ có lao động giá rẻ. Các ưu đãi để thành lập doanh nghiệp ở quốc gia Đông Nam Á này rất phong phú, cơ sở hạ tầng đang được cải thiện cũng như sự thuận tiện trong kinh doanh. Về vấn đề này, các công ty nước ngoài đang cân nhắc đầu tư vào Đông Nam Á trong tương lai có thể liên hệ với các chuyên gia tại Dezan Shira and Associates để hiểu biết toàn diện hơn về những thách thức và lợi ích khi thành lập doanh nghiệp tại Việt Nam.

Việc làm là nền tảng của sự phát triển kinh tế xã hội và có ý nghĩa quan trọng đối với bình đẳng giới. Việc làm có thể cải thiện sinh kế, giảm nghèo, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và gắn kết mọi người từ các thành phần xã hội và dân tộc khác nhau. Việc làm cũng là phương tiện thúc đẩy bình đẳng giới và từ đó, chuyển hoá thành các tiến bộ kinh tế và xã hội. Việc làm giúp phụ nữ có khả năng tự lựa chọn, hỗ trợ gia đình và tham gia tích cực hơn vào cộng đồng của mình.

Trong những năm qua, Việt Nam đã đạt được nhiều tiến bộ đáng kể theo các thước đo quan trọng về bình đẳng giới, đặc biệt trong việc cải thiện việc làm cho phụ nữ. Mặc dù vẫn còn một số khoảng cách giới nhất định, Việt Nam được xem là quốc gia có mức độ bình đẳng giới tương đối cao, bao gồm cả khía cạnh tăng cơ hội kinh tế cho phụ nữ.

Tuy nhiên, những xu hướng và thay đổi đang gia tăng trên toàn cầu đang tạo ra những thách thức và cơ hội mới xoay quanh việc làm cho phụ nữ Việt Nam. Những xu hướng đó là kết quả của một loạt các thay đổi về kinh tế xã hội và nhân khẩu học đang định hình tương lai của Việt Nam, chẳng hạn như cạnh tranh kinh tế trong khu vực và toàn cầu, tốc độ tăng năng suất lao động chậm lại, tình trạng già hóa dân số và đô thị hóa. Một số thay đổi có thể mang lại lợi ích cho phụ nữ, tuy nhiên nếu thiếu sự can thiệp và điều tiết, chúng có thể đảo ngược những thành tựu đã đạt được trước đây và gia tăng các chênh lệch trên cơ sở giới.

So với nam giới, phụ nữ Việt Nam đã đạt được nhiều tiến bội theo một số thước đo thị trường lao động. Tỷ lệ tham gia lao động của phụ nữ Việt Nam cao, với 76% phụ nữ trưởng thành (từ 15 đến 64 tuổi) đang làm việc. Tỷ lệ này chỉ là 49,6% trên thế giới và 61,1% tại Đông Á và Thái Bình Dương. Điều này cho thấy rằng tỷ lệ nữ giới tham gia vào lực lượng lao động của Việt Nam cao hơn nhiều so với mức kỳ vọng của quốc gia có mức phát triển như tương đương (1).

Theo thống kê, phụ nữ Việt Nam làm việc nhiều hơn theo hình thức có hợp đồng trả lương, trong khi nam giới chiếm đa số trong các công việc có lương nhưng không ký hợp đồng. Khi so sánh giữa nam giới và phụ nữ với các đặc điểm tương tự như độ tuổi, trình độ học vấn và khu vực sinh sống, khả năng phụ nữ có việc làm được trả lương thấp hơn 8,8% so với nam giới. Tuy nhiên, khả năng phụ nữ có việc làm dưới dạng hợp đồng trả lương lại cao hơn 2% so với nam giới. Điều này có nghĩa là lao động nữ được tiếp cận phúc lợi xã hội nhiều hơn thông qua công việc và ít nhất họ được đảm bảo mức lương tối thiểu (2).

Tuy nhiên, số phụ nữ tự làm chủ hoặc không nhận được bất kỳ thu nhập nào cho lao động của mình (ví dụ như các công việc kinh doanh hộ gia đình không được trả lương) cao hơn nhiều hơn so với nam giới. Vì vậy, trong khi phụ nữ có tỷ lệ tham gia lực lượng lao động cao ở Việt Nam, loại công việc họ đang làm được trả công ít hơn so với nam giới. Với cùng một ngành nghề, cùng độ tuổi, cùng đặc điểm nhân khẩu học và sống trong cùng một khu vực như nam giới, phụ nữ có thu nhập thấp hơn nam giới khoảng 15,4% vào năm 2011. Con số này đã giảm xuống 12,5% vào năm 2014, một dấu hiệu tích cực cho thấy khoảng cách giới đang được thu hẹp (2). Tuy nhiên, khoảng cách thu nhập giữa nam và nữ vẫn tồn tại, chủ yếu trong một số ngành nghề nhất định. Sự phát triển của ngành dệt may theo định hướng xuất khẩu đã mang lại hơn một triệu việc làm có lương, trong đó lao động nữ chiếm đa số. Dịch vụ và bán hàng cũng là nhóm công việc chiếm ưu thế bởi nữ giới, mặc dù đây là ngành nằm trong nhóm trả lương thấp nhất. Nhưng thậm chí trong nhóm công việc này, nam giới vẫn có thu nhập cao hơn phụ nữ (3).

Khi xem xét trình độ kỹ năng kết hợp với công việc, phụ nữ có xu hướng co cụm trong các ngành nghề được trả lương thấp và trong các hình thức công việc truyền thống. Gần 52% lao động nông nghiệp là nữ, so với 48% lao động nông nghiệp là nam. Khoảng 55% chủ doanh nghiệp hộ gia đình là nữ, so với 45% là nam (3). Lao động nông nghiệp gia đình và doanh nghiệp hộ gia đình là loại hình công việc không được trả lương trực tiếp, thay vào đó các thành viên trong nông hộ và doanh nghiệp hộ gia đình lấy lợi nhuận làm thù lao cho chính mình. Loại công việc này có năng suất thấp và thu nhập trung bình thấp hơn so với mức lương tối thiểu. Sự phân chia theo giới cũng tồn tại ở những nấc thang nghề nghiệp cao nhất. Chỉ có 25% cán bộ quản lý là phụ nữ. Theo thống kê Giới năm 2015, chỉ 22% doanh nghiệp có một lãnh đạo cao nhất là nữ (4).

Sự khác biệt trong trình độ học vấn có thể giải thích một cách hợp lý cho sự chênh lệch về thu nhập. Tuy nhiên, ở Việt Nam, nữ giới có thu nhập thấp hơn nam giới mặc dù họ có trình độ học vấn cao hơn, điều này có thể bắt nguồn từ việc phụ nữ có xu hướng làm việc trong các ngành nghề được trả lương thấp hơn nam giới. Vậy câu hỏi đặt ra là: Tại sao phụ nữ ở Việt Nam lại chọn làm việc trong những ngành nghề được trả lương thấp hơn nam giới?

Sự phân chia nghề nghiệp có thể liên quan đến các sự khác biệt giới quan trọng. Một nghiên cứu vào năm 2018 cho thấy, ở tuổi 12, học sinh nữ mong muốn làm trong những nghề có thu nhập cao hơn học sinh nam (5). Tuy nhiên, tại bậc giáo dục sau trung học, nữ thanh niên bắt đầu tập trung vào các ngành quản lý, giáo dục và sức khỏe, trong khi nam thanh niên chọn Công nghệ Thông tin và các ngành khoa học.

Bên cạnh đó, chuẩn mực xã hội cho rằng trách nhiệm chăm sóc gia đình thuộc về phụ nữ. Trên thực tế, phụ nữ phải dành nhiều giờ chăm sóc gia đình hơn nam giới. Những trách nhiệm gia đình này cần một khoảng thời gian tương đương với công việc toàn thời gian, làm hạn chế cơ hội tiếp cận thị trường lao động của phụ nữ. Rào cản chăm sóc gia đình cản trở phụ nữ có công việc tốt hơn có thể tăng thêm, khi tình trạng già hóa dân số ngày càng đòi hỏi phụ nữ phải dành thời gian chăm sóc người cao tuổi. Những việc làm cần nhiều giờ lao động, địa điểm làm việc xa (mất thời gian di chuyển dài) hoặc có khung thời gian làm việc không theo giờ hành chính có thể không tương thích với trách nhiệm gia đình, do đó hạn chế các lựa chọn việc làm của phụ nữ. Điều này có thể khiến phụ nữ lựa chọn những công việc được trả lương thấp để đổi lấy các lợi ích như thời gian nghỉ phép và bảo hiểm xã hội (6). Ngay cả khi là người tự doanh hoặc là chủ doanh nghiệp, để có sự linh hoạt và cân bằng công việc ở nhà tốt hơn, phụ nữ thường bắt buộc phải lựa chọn những lĩnh vực có mức thù lao thấp hơn.

Ngoài ra, nhận thức về vai trò truyền thống của phụ nữ trong xã hội cũng là một rào cản khác. Kết quả Khảo sát Giá trị Thế giới 2001 cho thấy, 86% người trả lời đồng ý rằng làm công việc nội trợ cũng mang lại sự hài lòng về vai trò, bổn phận như đi làm có lương. Tới 86% số người trả lời này cũng cho rằng phụ nữ cần phải có con mới được xem là làm tròn thiên chức (7).

Tại Việt Nam, điều 40 của Luật về Bình đẳng Giới quy định không được phân biệt đối xử theo giới khi tuyển dụng nhưng trên thực tế, tình trạng này vẫn còn tiếp diễn (8). Ví dụ, đánh giá các chương trình quảng cáo tuyển dụng quản lý và giám sát cấp cao cho thấy, 65% nội dung quảng cáo nêu rõ họ cần nam (yếu tố giới) cho các vị trí này (9).

Cải cách là thực sự cần thiết để thiết lập nền tảng cho các công việc có năng suất cao hơn, thu nhập tốt hơn và chất lượng hơn cho phụ nữ. Với tình hình cụ thể của Việt Nam, các giải pháp dưới đây được khuyến nghị nhằm hỗ trợ mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới, đặc biệt là trong lĩnh vực việc làm:

Cho đến hôm nay, vẫn chưa có một quốc gia nào trên thế giới có thể tuyên bố đã đạt được bình đẳng giới tại nơi làm việc. Những thành kiến vô thức, những khuôn mẫu và định kiến phổ biến hơn là chúng ta tưởng, đặc biệt trong các lĩnh vực thống trị bởi nam giới như là tài chính, công nghệ thông tin, thậm chí, kể cả trong các lĩnh vực do nữ giới thống trị như điều dưỡng và giảng dạy. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, việc ẩn danh trong quy trình tuyển dụng giúp giảm đáng kể những thành kiến và định kiến trên. JANZZ.technology luôn ủng hộ hết mình cho một chính sách tuyển dụng đa dạng và hòa nhập. Minh chứng cho điều này chính là số lượng nữ nhân viên IT tại JANZZ chiếm tới 60%. Chúng tôi đã chứng minh rằng các chính sách không phân biệt đối xử trợ giúp quá trình tuyển dụng vô cùng hiệu quả, khiến nhân viên hòa nhập tốt hơn và đạt được nhiều thành công hơn. Để tuyển được một đội ngũ nhân lực có chất lượng cao, ngay từ bước đầu tiên của quy trình đăng ký, ứng viên phải được đảm bảo ẩn danh bằng cách che giấu các dữ liệu cá nhân không liên quan đến công việc. Những thông tin khác liên quan tới công việc và mang tính thiết thực cho quá trình đối sánh như nghề nghiệp, kỹ năng, học vấn, kinh nghiệm, mức lương v.v. sẽ được hiển thị ngay từ đầu. Chúng ta đã tiến một bước rất dài trong quá trình đấu tranh bình đẳng giới, tuy nhiên, mục tiêu hãy còn ở rất xa.  Nếu bạn, cũng như chúng tôi, nghĩ rằng vẫn còn rất nhiều việc cần phải làm để tiến tới gần mục tiêu hơn , hãy liên hệ với chúng tôi tại địa chỉ [email protected] hoặc truy cập website www.janzz.technology. JANZZ.technology sẽ cung cấp các công cụ phù hợp để giúp bạn đấu tranh giành cơ hội bình đẳng cho tất cả mọi người. Cùng nhau, chúng ta có thể tạo ra sự khác biệt!

(1) Demombynes and Testaverde. 2018. Employment Structure and Returns to Skill in Vietnam: Estimates Using the Labor Force Survey. Washington, DC: World Bank. (2) Cunningham, Wendy; Alidadi, Farima; Buchhave, Helle. 2018. Vietnam’s Future Jobs : The Gender Dimension. World Bank, Hanoi. (3) World Bank Group. 2019. How to Design the Vietnam Labor Code to Improve Gender Equality. World Bank, Hanoi. (4) Data is from the Gender Statistics Database, World Bank, Washington, DC (May 2018) https://data.worldbank.org/data-catalog/gender-statistics. (5) Chowdhury, Iffat; Johnson, Hillary C.; Mannava, Aneesh; Perova, Elizaveta. 2018. Gender Gap in Earnings in Vietnam : Why Do Vietnamese Women Work in Lower Paid Occupations?. Policy Research Working Paper;No. 8433. World Bank, Washington, DC. (6) Chowdhury, Iffat, Elizaveta Perova, Hillary Johnson, and Aneesh Mannava. 2018. Gender Streaming in Vietnam. Washington, DC: International Bank for Reconstruction and Development/World Bank. (7) Dalton, Russell J., and Nhu-Ngoc T. Ong. The Vietnamese Public in Transition: The 2001 World Values Survey. Irvine, California: Center for the Study of Democracy, University of California. (8) Based on data from the Women, Business, and the Law database, World Bank, Washington, DC ( May 2018), http://wbl.worldbank.org) (9) ILO (International Labor Organization) 2016. Asean in Transformation: Perspectives of Enterprises and Students on Future Work. Bureau for Employers’ Activities working paper 11, ILO, Geneva.

Thị trường mỹ phẩm tại Việt Nam hiện đang là một trong những điểm sáng của nền kinh tế, với sự phát triển mạnh mẽ và đa dạng của các sản phẩm. Trải qua những năm qua, ngành công nghiệp này đã chứng kiến sự tăng trưởng ấn tượng và thu hút sự quan tâm đầu tư từ nhiều doanh nghiệp. Hãy cùng nghiên cứu thị trường mỹ phẩm Việt Nam để có cái nhìn tổng quát cũng như hướng đi đúng đắn nếu bạn có kế hoạch tham gia vào lĩnh vực kinh doanh này.